Văn tự trên bia đá, chuông đồng ở Chùa Hương

Khu Phật tích Chùa Hương có rất nhiều bia đá, đa phần mặt mài chữ khắc ngay vào vách đá (ma nhai) hoặc dựng lên những tấm bia có trang trí đẹp, ý nghĩa cao sâu.

Những tấm bia đá hoặc bài minh trên chuông đồng, thường ghi công việc nhà chùa, công đức thập phương đóng góp, hay chép những bài thơ, để những lời hay ý đẹp ca ngợi cảnh sắc nơi đây…

Các tấm bia đều ghi bằng chữ Hán Nôm, chỉ có hai tấm bia (một dựng ở nhà bia chùa Thiên Trù, một dựng ở khu chùa Bảo Đài Tuyết Sơn, là chữ quốc ngữ. Có những tấm bia nghệ thuật thư pháp rất đẹp, rất sinh động, như đặc bút của chúa Trịnh Sâm (“Nam thiên đệ nhất động “, “Sơn thủy hữu tình “, “Kì sơn tú thủy …”), hay như tấm bia khắc bài thơ chữ thảo tuyệt đẹp của Phó sứ Bùi Dỵ ở trong động Hương Tích.

Những tấm bia cổ hay bài minh trên chuông cổ được phiên âm, dịch ra chữ quốc ngữ. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu văn tự của một số tấm bia cổ, văn chuông cổ có quan hệ thời gian với lịch sử xây dựng Chùa Hương để cùng quý khách tham khảo và nghiên cứu.

THIÊN TRÙ TỰ THỦY TẠO
THIẾT THỔ THẠCH PHÚC CƠ SÙNG KIẾN KIM
DONG BẢO ĐIỆN BI KÝ

Nhĩ thời thế tôn, giáo pháp lưu thông lịch quảng a tằng kỳ kiếp. Cắng cổ cùng kim duyên khai phật đạo, như thị thiền chân chỉnh giáo, đặc thụ Như Lai vân thủy thiền đạo Viên Quang Chân Nhân quốc phong: Thượng lâm Viện Tăng lục ty Hòa thượng Viên Giác Tôn Gỉa. Đoan khiết nhất tâm linh chuyên tam bảo.

Nội tu Hương Tích bảo động, ngoại khai Phật cảnh Thiên Trù, khuyến tập phương sung tu công đức. Thiên đài cảnh huống vĩnh thùy liệt diệm thiền đăng, phật quả chu viên, miên tự hồng duyên đại đạo .

Quốc bảo nhi quốc thế tôn an, dân kỳ, nhi dân an phú thọ, dĩ vi công đức phúc đẳng hà sa. Thế thế công chứng bồ đề, sinh sinh viên thanh Phật đạo, vĩnh truyền thiên cổ dĩ hiểu hậu lai.

Nhất hưng công hội chủ cập thập phương công đức quả mãn viên thành sở hữu tính danh khai tuần vu hậu.

Bản dịch
CHÙA THIÊN TRÙ TỪ BUỔI ĐẦU
ĐẮP NỀN ĐẤT ĐÁ DỰNG CHÙA VÀNG ĐIỆN BÁU,
TẠC BIA GHI LẠI

Thời ấy giáo pháp của Đức Thế Tôn đã lưu truyền rộng khắp, nhiều a tăng kỳ kiếp các nơi biết. Từ đời xưa cho đến nay đạo phật mở mang rộng lớn, giáo pháp chân chính.

Ơn đức Như Lai Vân Thủy Thiền thiên đạo Viên Quang Chân nhân được nhà vua ban ở Thượng lâm viện, Tăng lục ty Hòa thượng Viên Giác Tôn Gỉa .

Hòa thượng thanh bạch một long chuyên lo việc tam bảo, trong tu giữ động Hương Tích quý, ngoài thì xây dựng cảnh Phật Thiên Trù, khuyến giáo thập phương cùng góp công đức. Phúc trời lâu dài lưu mãi hương đăng ở chùa, việc Phật được tròn quả phúc.

“Nước cầu nước thịnh trị dân an,
Dân cầu dân yên vui phú quý”.

Do có được công đức như cát sông Nại Hà đời đời đều chứng lộc bồ đề, người người đều là tâm Phật truyền mãi ngàn năm cũng biết công đức tròn quả phúc, đều ghi rõ họ tên.

Đường Hào huyện, Đường Hào xã, Thượng Vỵ thôn. Thị nội cung tần Mai Thị Cự tức Đào Thị Cự hiệu Diệu Trường, Mai Thị Nhiên tức Đào Thị Nhiên hiệu Diệu Trừng hậu Phật …
Vương Chính phi Quốc thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung hậu phật.
Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Giang hiệu Diệu Lan Chân nhân ở ốc Biện Thượng, xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc cùng quý quan Nguyễn Đăng Lục công đức cổ tiền 20 quan.
Phó tướng Phái Quận công Trịnh Du thân mẫu Trần Thị Đề hiệu Diệu Đê cúng 2 quan. Vũ Thị Bàn hiệu Diệu Thu, tín quan tham đốc Trí Mỹ Hầu, Trịnh Bính tự Đào Hồng Huy Đức Chân nhân, phu nhân Trịnh Thị Liên hiệu Diệu Tuyên Chân nhân, Nguyễn Thị Canh hiệu Diệu Hoa Chân nhân cúng 3 quan.
…Cung tần Phan Thị Uẩn hiệu Diệu Hiền Chân nhân, ở xã Thu Hoạch huyện Thiên Lộc cúng 2 quan.
Cung tần Vũ Thị Yến hiệu Viên Thông Chân nhân ở thôn Đan Minh, xã Biện Hạ, huyện Cẩm Thủy cúng cổ tiền 5 quan. Thân mẫu Hà Thị Bạch hiệu Diệu Thanh Chân nhân cúng cổ tiền 5 quan, em trai Phạm Bá Vượng cùng vợ là Trần Thị May cúng cổ tiền 2 quan
Cung tần Vương Thị Ngọc Cha hiệu Diệu Lộc Chân nhân ở xã Hương Canh, huyện Đan Phượng cúng cổ tiền 2 quan.
Cung tần Nguyễn Thị Hân ở xã Xích Đằng, huyện Kim Động cúng cổ tiền 2 quan .
Thiền trưởng Nguyễn Thế Khang tự Trần Huyền hiệu Đạo Thắng Chân nhân, Thiền tăng tự Đạo Nhẫn Chân nhân.
Cùng thập phương công đức không tả hết .
Niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686) tháng ba nhuận ngày tốt.  

BỤT TẠO THẾ TÔN BIA KÝ
                              (Phiên âm )

Đại Việt quốc, tả phủ Luân Quận công, quận phu nhân quán Thiệu Thiên phủ, Vĩnh Phúc huyện Sóc Sơn, xã hưng công hội chủ. Thần Trịnh Thị Ngọc Du hiệu Diệu Hương Viện Kim Chân nhâ, thân mẫu Trịnh Thị Liên hiệu Diệu Hồng Trưởng Thượng Chân nhân.

Dục sung thắng tự hưng tạo kim dong trang châu tố hội, hoàn hảo viên thành .
Cung Thiên Trù tam tượng Thiên Tôn, phụng Hương Tích thập nhất hương tượng.
Vĩnh di hồng phúc, phúc diễn ức niên, bia ký hậu lai, vạn tải vĩnh tăng.
Vịnh Thịnh nguyên niên.
Ất dậu niên (1705) thập thất nguyệt cốc nhật.

BIA GHI VIỆC TẠO TƯỢNG 
                                        (Bản dịch)

Đại Việt quốc tả phủ Luân Quận công; Quận phu nhân ở xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên là Trịnh Thị Ngọc Du hiệu Diệu Hương Viên Kim Chân nhân cùng mẹ là Trịnh Thị Liên hiệu Diệu Hồng Trưởng Thượng Chân nhân.

Dốc long vào việc chùa, đã tạo đúc tượng và sơn phủ thếp vàng điểm ngọc rất tốt đẹp, công việc đã xong. Nay:

Cung ba pho tượng Thiên Tôn ở ngoài chùa Thiên Trù.
Phụng dâng mười một pho tượng ở động Hương Tích.
Công của viên thành để lại hồng phúc tiếc nối nghìn năm. Tạc bia để lại với cảnh chùa cùng chư tăng dài lâu.
Niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ nhất. Năm Ất Dậu tháng mười một ngày tốt.

HƯƠNG TÍCH ĐỘNG LINH QUANG
VÔ CỰC LINH NHAM BẢO TƯỢNG KÝ
(Bản dịch)
Động núi Hương Tích, núi khe đều chứa khí thiêng ,chim đến dâng vẻ đẹp, một bầu trời do tạo hóa đặt bày quả là cảnh kỳ quan trong vũ trụ.

Tương truyền, Phật Tổ Quan Âm từ nước Mẫu Trang sang nước Nam tu trì, nơi đó đến nay dấu thiêng vẫn còn như mới. Chuyện cũ mịt mờ khó bề khảo cứu, song cảnh trời động kỳ tú, sông núi vẫn còn khiến khách du quan tâm thần đều xúc động như tới kỳ viên, như lên đậu xuất, lâng lâng có cảm giác như dứt được khỏi chốn bụi trần, như vậy thì lời đánh giá nơi đây là chốn bậc nhất của trời Nam quả cũng không ngoa vậy.

Tổ tiên của Nhật này là Đại Vương Bồ Tát Thiền sư, nối đời sung tín đạo Phật, trước đây đã từng đúc một pho tượng đồng, dâng vào đặt ở trong động, ánh thiên lên xuống chứng giám long thành kể đã bao năm.

Năm Bính Ngọ (1786) gặp trận binh đao, đồ đồng trong nhà đều bị mất sạch. Những lúc như nhàn Nhật này thường thăm cảnh tịnh, nhớ tới bậc tu hành thời trước, thâm nguyện sẽ tạo lại pháp tướng để nối chí người xưa. Mười bốn năm trước tức là năm Qúy Sửu (1793), Nhật được may mắn về làm quan ở bốn thành vùng Thăng Long bèn quyên tiền mua đá, thuê thợ đục mài chạm khắc thành tượng báu đức Phật Tổ, rồi rước vào động dâng lên trên tòa.

Tượng này có chất vững bền chẳng nát, chẳng diệt, có sắc sang bong không chướng không ngại, thưòng trụ trên đài sen và sẽ cùng với núi này sừng sững còn mãi đến muôn đời.

Năm tháng trôi qua, chưa kịp ghi lại sự thực, nay nhân lúc công việc thư thả, xin lược thuật lại khắc vào bia đá để truyền lại lâu dài, ngõ hầu khíên cho khách du quan tới đây còn có bằng cứ để biết về sự kỳ tú của động, về gia thế thiện duyên của Nhật này.

Hoàng triều Gia Lông năm thứ Năm. Bính Dần tháng hai ngày lành.
Nguyễn Thị Huề hiệu Thiện Cơ, vợ Nhật Quant hầu Chánh võ nhất vệ trưởng hiệu Sơn Nam thượng trấn .
Nguyễn Huy Nhật xã Đại Võ, huyện Võ Giàng kinh ghi.
Võ Đình Viện, xã Đại Đình, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn giám tạo .
Trúc Kỳ Phủ viết chữ.
HƯƠNG TÍCH ĐỘNG BIA KÝ
(Phiên âm)

Khoái Châu phủ, Kim Động huyện, Tiên Cầu xã cư tại kinh đô Phụng Thiên phủ, Thọ Xương huyện, Báo Thiên phường, Thượng Môn Hạ giáp .

…Phụng sai giao lĩnh Tuyên Quang xứ …
…Tả Đô đốc Thái phủ Liêu Quận công Vũ Đình Trác, chính khổn phu nhân Nguyễn Thị Tân .
Nhất hưng công hội chủ tác kiều bạch nhị liên hậu Phật .

Cảnh Hưng nhị thập bát niên
Chính nguyệt nhị thập cốt nhật.

Bản dịch
HƯƠNG TÍCH ĐỘNG

…Phụng mệnh nhà vua lĩnh Tuyên Quant xứ …Tả đô đốc Thái phủ Liêu Quận công Vũ Đình Trác, chính thất phu nhân Nguyễn Thị Tân .
Nguyễn quán xã Tiên Cầu huyện Kim Động phủ Khoái Châu, trú quán ở kinh đô tại giáp Thượng Môn Hạ, phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên .
Nhất hưng công, công đức đúc một pho tượng nghìn mắt nghìn tay dâng lên tam bảo.
Nhất hưng công, công đức bắc hai cầu bạch liên hậu Phật (bầu hậu)
Niên hiệu Vua Lê Cảnh Hưng năm thứ hai mươi tám (1767). Tháng giêng ngày tốt.

TÀO KHÊ THỰC LỤC BIA KÝ (trích)
(Phiên âm )

…Tỵ tố nãi Chương Đức An Thái xã nhân, gia truyền phiệt duyệt công khanh tích phù: Đinh, Lê …sinh Phúc Chưởng, Phúc Chưởng sinh tử nam, trưởng nam Phạm …húy Vĩ cửu tuế xuất gia quy y hương Tích tự Viên Công Hòa thượng, gian thừa phó trúc kế trụ bản tự tạo tác Phật tự.

Thứ quý Nguyệt đường Đại hòa thượng chân Lý Tổ sư, công tính cụ linh cơ tâm không pháp giới, giác lâm hữu phiệt ư. Công phù hoàng trạch lụ mông, ư ban tứ tuần tư kỳ thụ lịch chế Lục Ty hòa Thượng pháp tự Như Trí Giác Tuệ Tổ sư.
Công dĩ Kỷ Mùi niên, tứ nhật thị tịch, kỳ tôn đồ kiến nhất tháp ư Thiên Trù tự dĩ phụng sư yên công.
…Trưởng nam Phạm Trần Đoàn tự Hải Viên sinh Giáp Thân (1764) niên, chỉ Bính Tuất (1766) niên thân phụ thị tịch. Hải Viên hưng trụ cố viện tiên tong nho học đạo, thập nhị túê quy xuất gia…
Kỷ Dậu (1789) niên, hồi viện trụ trì Hương Tích –Thiên Trù tự
Qúy Sưủ (1793) niên, tân tạo Thiên Trù hậu đường ngõa chuyên, hựu trú chung Hương Tích .
Mậu Ngọ (1798) niên, Hải Viên thiết niệm gia viện quy mô.
Canh Thân (1800) niên, cấu tác Hương Tích Lan viện, hữu cung phụng thần miếu hựu thánh tạo, hựu trú chung bản viện.
Nhâm Tuất (1802) niên, mạnh xuân sáng tạo Thiên Trù tiền đường ngũ gian tinh bổ lý phật tự ban ban, hưng khơi công đức trang nghiêm, thượmg dĩ tiên tổ tông. Hạ dĩ thùy hậu diễm, giải do cổ chỉ Tào Khê tú khí linh chung, dĩ vi phát phúc, chi căn cơ dã khả vô minh hồ minh hồ nhưng dụng ngũ ngôn nhị thập liên dĩ thọ kỳ truyền vận .
Gia Long nhị niên tuế tại Qúy Hợi (1803)nhị nguyệt cát nhật .

Bản dịch
TÀO KHÊ VIỆN THỰC LỤC BIA KÝ

…Tiền tổ nguyên người Chương Đức xã An Thái, gia truyền nối tiếp công khanh, tích xưa phù nhà Đinh nhà Lê .
Qua nhiều đời, đến đời ông Phúc Chưởng sinh được tứ nam. Trưởng nam Phạm …húy Vĩ lên chín tuổi xuất gia quy y Hương Tích tự Viên Công Hòa thượng, thừa theo lời xưa kế trụ ở chùa xây dụng cảnh phật.
Thứ quý Nguyệt đường Đại Hòa thượng Chân Lý Tổ sư. Tổ tinh thông pháp giới kỳ tài uyên bác kinh luật. Năm bốn mươi tuổi ơn vua phong Hòa thượng trong Ty Tăng lục pháp tự Như Trí Giác Tuệ Tổ sư.
Năm Kỷ Mùi tháng tư ngày mười bốn Tổ viên tịch, đệ tử xây ở chùa Thiên Trù một ngọn tháp thờ phụng Tổ…
…Trưởng nam Phạm Trần Đoàn tự Hải Viên sinh năm Giáp Thân (1764) đến năm Bính Tuất (1766) lên ba tuổi thì bố mất. Hải Viên theo nếp nhà vững đạo tâm tìm thầy học đạo, năm mười hai tuổi (ẤT Mùi -1775) xuất gia.
Năm Kỷ Dậu (1789) hồi viện và được dân xã bầu làm chủ chùa Thiên Trù động Hương Tích .
Năm Qúy Sửu (1793) làm tam bảo chùa Thiên Trù bằng nhà ngói và đúc chuông động Hương Tích .
Năm Mậu Ngọ (1798) Tổ Hải Viên tu sửa, xây dựng mô Tào Khê Viện .
Năm Canh Thân (1800) xẫy dựng Lan viện động Hương Tích và sửa sang thần miếu và đúc tượng Thánh .Và lại đúc chuông Tào Khê Viện.
Năm Nhâm Tuất (1802), tháng giêng làm tìên đường chùa Thiên Trù năm gian bằng ngói và sửa sang trong chùa thờ Phật.
Mọi việc trùng tu kiến thiết được khang trang trên là để phụng sự Phật Tổ trang nghiêm, dưới là để lưu lại cho đời sau. Cũng là nhờ từ nền móng khí thiêng Tào Khê phát phúc.
Vậy viết bài kệ ngũ ngôn hao mươi hai câu để lưu lại .
Năm Gia Long thứ hai. Qúy Hợi (1803), tháng hai ngày tốt.

BÀI MINH
HƯƠNG SƠN TÍCH ĐỘNG CHUNG
(Dịch )

Động Hương Tích thuộc thượng thôn xã Yến Vĩ huyện Hoài An phủ ứng Thiên.
…Thiết nghĩ chùa này trời tạc vẻ kỳ, đất gom khí tốt, chợ trời, buồng tằm đã lạ càng lạ, trống đồng nhũ đá vẻ kỳ them kỳ quả là cảnh đẹp nhất nước Nam ta vậy.
Song hiềm chuông chùa bị thất lạc, sơn tăng Hải Viên nhờ được kế tập tiên tổ, đã dựa vào cơ nghiệp cũ mà trụ trì, một long thanh tịnh tinh trụ tam bảo, trong thì động Hương Tích, ngoài thì động Thiên Trù.
…Hải Viên khuyến giáo thập phương ở chợ Đông Lao xã Bạch Sam huyện Sơn Minh rồi đúc chuông này một lần cùng với chuông chùa Gia Khánh vào một ngày lành tháng chạp năm Qúy Sửu (1793).
Hải Viên sai thợ đúc chuông nhóm lửa trời đất, quạt than âm dương nên chẳng bao lâu đã đúc xong.
Tác thần của chuông này sẽ ở ngoài chỗ không tiếng, không hỏi và sẽ là vô cùng vô tận chứ đâu phải chỉ ở tiếng chuông mà thôi nên víêt bài minh để chuông này được lưu truyền mãi mãi :

Động chủ Hương Tích.
Rừng thiền cảnh thanh.
Trời tạo hình thế ,
Đất gom khí thiêng .
Núi đá mở động .
Nhũ đá rủ tinh
Phong quang tuyệt diệu.
Cảnh sắc hữu tình .
Cầu tiếng anh linh
…Một thời công đức
Muôn thủa thơm danh .
Hoàng triều Cảnh Thịnh năm thứ hai (Giáp Dần -1794).
Trần Đoàn kính đề. Nguyễn Ngọc Lân đúc.