Nằm trên tuyến du lịch hành hương
về đất Phật Chùa Hương, Đền Thánh Cả là điểm dừng chân của nhiều du khách thập
phương. Ngoài sự sùng kính đối với bậc tiền nhân nhiều công lao với trăm họ,
khách du lịch còn được chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với núi
non, sông nước, trên bến, dưới thuyền, trẻ già, gái trai nô nức ngày trẩy
hội...
Đền Đức
Thánh Cả toạ lạc trên đất thôn Hữu Vĩnh (xã Hồng Quang, huyện Ứng Hoà, Hà Nội),
còn gọi là đền Thiên Vựng. Đền Đức Thánh Cả đã được Nhà nước xếp hạng là di
tích lịch sử - văn hoá.
Đền ngự
bên tả ngạn sông Đáy, tựa lưng vào dãy núi Hàm Long trùng điệp. Du khách trẩyhội chùa Hương trên đường 21B, đoạn từ Thanh Bồ về bến Đục Khê, đến xã Hồng
Quang, theo biển chỉ dẫn trên trục đường qua cánh đồng trải rộng, đi khoảng 15
phút đường sông từ Đình Xuân sẽ cập bến Đền Đức Thánh Cả.
Tương
truyền, Đền Đức Thánh Cả được xây dựng cách đây khoảng 1.500 năm. Đền thờ thần
là vị tướng "Nhất phẩm đại vương" triều Tiền Lý Nam Đế.
Theo
sách "Đại Nam nhất thống chí" và thần phả, sắc phong hiện lưu giữ tại
đền do Hàn Lâm viện Đông Các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên
niên (1572) và Quản giám bách thần tri điện Nguyễn Hiền phụng sao năm Vĩnh Hữu
lục niên (1740) thì Thần thuộc dòng dõi Kinh Dương Vương, con cháu vua Hùng.
Sinh thời, Thần là một vị tướng phò Lý Bôn dẹp giặc Lương xâm lược. Thần vốn là
người có tài thao lược thuỷ quân, được Lý Bôn phong làm "Tổng thống quân
vụ thuỷ đạo thượng tướng quân". Ngài cùng với Đại tướng Phạm Tu thống lĩnh
quân sĩ, phía Bắc dẹp tướng giặc Tiêu Tư nhà Lương, phía Nam dẹp giặc
Chăm-pa xâm lược. Diệt xong giặc, đất nước thanh bình, ngày 6 tháng 12, Ngài đi
xe mây về cửa sông Hát thuộc trang Hữu Vĩnh, hào quan sáng rực một vùng. Ngài
hoá tại nơi đây - nơi thân mẫu đã sinh ra Ngài. Hiển thánh, Ngài được Lý Nam Đế phong
sắc "Nam Thiên linh ứng tối linh thượng đẳng tôn Thần". Nhà vua ban
cho 5 hốt bạc, cấp ruộng đất cho trang Hữu Vĩnh làm "hộ nhi", tu sửa
đền miếu để phụng thờ, lưu dấu linh tích trường tồn cùng non sông đất nước. Từ
đó, ngôi đền này luôn được phụng thờ tôn nghiêm. Nhân dân địa phương và khách
thập phương thường xuyên về bái lễ, chiêm ngưỡng công lao bậc Tiền nhân.
Trải qua
các triều đại đều ban sắc phong. Hiện tại đền còn lưu giữ được 48 đạo sắc từ
thời Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Tộ (1619-1628) đến thời Nguyễn. Các sắc phong
đều ghi nhận "xưa nay giúp nước, giúp dân nhiều lần linh ứng, xếp vào hàng
tối linh thần ở trời Nam".
Năm 1991 đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng.
Từ xưa,
nhiều bậc đứng đầu vương triều, các anh hùng dân tộc đã từng về đây chiêm
ngưỡng, bái lễ. Theo thần phả hồi thế kỷ thứ X, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ
quân đến đền Hữu Vĩnh, thấy phong cảnh núi sông hùng vĩ, ngưỡng mộ thần linh,
ông đã cho quân sĩ hạ trại làm lễ cầu nguyện. Đến nửa đêm, Thần báo mộng âm phù
giúp ông dẹp giặc. Ông làm lễ bái tạ và chọn mười hai trai tráng của làng sung
vào đội quân túc vệ. Từ đó, đánh đâu thắng đó, rồi lên ngôi, đó là Đinh Tiên
Hoàng.
Nhớ ơn
thần phù giúp, nhà vua sắc phong "Thượng đẳng thần" cùng mỹ tự
"Thượng linh tế thông cảm rực thánh hồng ân uy liệt hiển hựu trung minh
quốc Thượng đẳng thần". Ngày 11 tháng giêng hàng năm, nhà vua xa giá về
hành lễ. Từ đó, ngày 10, 11, 12 tháng giêng trở thành ngày hội lớn của nhân dân
địa phương.
Thời
Trần, vào năm 1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trước khi đại phá quân Nguyên
Mông, ông kéo quân về giữ cửa rừng huyện Hoài An (miền ứng Hoà, Mỹ Đức ngày
nay). Hưng Đạo Vương đã vào đền làm lễ tế thần, sau đó tiến đánh quân giặc,
giành đại thắng. Vua Trần sắc phong cho thần "Nhất vị vũ lợi phong vân
đẳng khấu hộ quốc linh ứng Thượng đẳng thần". Ngày 6 tháng 5, nhà vua sai
tướng sĩ về làm lễ bái tạ. Từ đó, ngày này cũng là ngày lễ hội của nhân dân địa
phương.
Về kiến
trúc, ngôi đền được xây dựng theo kiểu trong chữ "Vương", ngoài chữ
"Quốc". Phía ngoài có cổng đền và tường bao quanh. Phía trong là hai dãy
hành lang, nhà đại bái, nhà hậu cung và toà ống muống. Toà hậu cung có 9 rồng
chầu. Trong đền còn lưu giữ được toàn bộ hệ thống hoành phi câu đối sơn sơn
thếp vàng, sơn mài, khảm trai có giá trị. Đặt giữa toà đại bái là hai bức hoành
phi:
Bức
ngoài: "Vạn cổ anh linh (muôn thuở anh linh); bức trong: "Nam Thiên
thượng đẳng" (thần thượng đẳng ở trời Nam). Trong đền còn có hàng chục
câu đối gỗ sơn son thếp vàng, có câu đối của các quan đại thần. Câu đối của nhà
chí sĩ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, viết:
Long
điển phấn sùng từ ngũ thái loan chương tiên quyết hạ
Long
tung truyền cổ sử thiên niên vân giá hải thiên quy.
Dịch
nghĩa:
Điển
hưng đền thịnh năm sắc phượng bay cửa tiên mở
Dấu binh
truyền sử cũ ngàn năm xe mây trời biển vẫn về.
Câu đối
của Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, viết:
Quốc Hữu
Vĩnh từ chiêm đế đức
Dân Hoài
An trạch ngưỡng hoàng ân
Dịch
nghĩa:
Nước có
đền Hữu Vĩnh ngôi đế đức
Dân Hoài
An ngưỡng ơn đức Hoàng đế"
Đặc
biệt, cổng chính của đền là một kiến trúc hình khối cân xứng với những đường
nét đắp vẽ phù điêu rất đẹp. Phía trên cổng đắp nổi bốn chữ: "Lâm hạ hữu
hách" (nơi nổi tiếng hiển hách). Hai cột trụ có câu đối:
Tứ thiên
dư niên vu từ Hồng Lạc thánh thần tú thuỷ kỳ sơn tiêu thắng tích.
Bách
niên vạn thế chi hạ long tiên dân tộc phổ phông can vũ tối linh sàng.
Dịch
nghĩa:
Hơn bốn
ngàn năm nơi đây có thánh thần Hồng Lạc, non nước ngoài thắng tích.
Mãi mãi
về sau dân tộc rồng tiên đội ơn mưa móc của thần thiêng".
Ngoài
những giá trị văn hoá cổ được lưu truyền, đền Hữu Vĩnh còn là một thắng cảnh
đẹp. Đền ngự bên bờ sông cổ. Cửa đền nhìn ra dòng sông. Nơi đây, dòng sông uốn
khúc như dải lụa. Phía sau đền tựa lưng vào dãy núi Hàm Long. Ngọn núi chính
hình thành 9 cấp nhìn tựa như 9 đầu rồng hướng về đền. Từ ngọn núi này, nước chảy
qua lèn đá tuôn róc rách quanh năm. Ngôi đền ẩn nhập vào lớp áo choàng xanh của
những lùm cây cổ thụ, cây ăn quả trải rộng trên diện tích 20.807m2.
Với vị
trí núi non hùng vĩ, sông nước hiểm trở, nơi đây đã từng chứng kiến bao kỳ tích
anh dũng của các thời kỳ dựng nước và giữ nước.
Từ những
năm 1947-1948 đến 1953 là vùng chiến khu căn cứ kháng chiến của đồng bằng Bắc
bộ, đầu mối nối liền tuyến đường Hà Nội - Phú Xuyên - Khu Cháy (Ứng Hoà) với
vùng hậu cứ rộng lớn: Nho Quan, Thanh Oai, khu IV cũ. Công binh xưởng những
ngày đầu kháng chiến đã lập xưởng đúc súng đạn đầu tiên ở khu vực này.
Liên khu
uỷ Uỷ ban Hành chính Liên khu III vào những năm 1949-1950, đóng ở đây chỉ huy
chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Nam Khu Cháy - Ứng Hoà - Phú Xuyên - Bắc
Bình Lục - Nam Hà. Đền cũng là nơi tập kết bộ đội xuất quân đánh nhiều trận
lớn, nơi dừng chân của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ trong thời kỳ
kháng chiến.
Trải qua
bao cơn binh lửa, thế vận đổi thay, ngôi đền vẫn trường tồn cùng với sự trường
tồn của đất nước, trở thành di tích lịch sử - văn hoá. Nơi đây ẩn chứa nhiều
dấu tích lịch sử đáng trân trọng, đi vào đời sống tinh thần của nhân dân với
lòng tôn kính, sùng bái khách thập phương.
Hàng năm, lễ tiễn năm cũ, đón năm mới từ ngày 30 Tết đến hết mùng 4 tháng
giêng. Từ đó, đón du khách trẩy hội Chùa Hương và hành lễ Đền Đức Thánh Cả; Lễ
đại kỳ phước được tổ chức 3 ngày từ 10 đến 12 tháng giêng, làng tổ chức rước
kiệu bằng thuyền rồng dọc sông, có bơi chải và các thuyền chiến bơi thờ, rước
lọng giá từ đền về đình Xuân đến tế thần. Trong 3 ngày có nhiều trò vui như:
múa rồng, kỳ lân, đấu gậy...; Kỳ lễ tế vua Đinh, tưởng niệm vua Đinh - người có
công thống nhất đất nước, làng tổ chức tế lễ 1 ngày (ngày thượng đinh đầu tháng
2); Hội tế mùng 6 tháng 5 là ngày kỷ niệm vua Trần về tạ ơn Thánh; Kỳ tế hội
thu, tổ chức vào ngày 11 và 12 tháng 8 có rước thuyền bơi chải, rước kiệu trên
sông từ đền về đình Thu, tế Long Vân khánh hội; Hội tế mùng 6 tháng chạp là
ngày kỵ Thánh.